Dòng họ Lý – Bến Tre và câu chuyện rút ra từ cha ông
CÂU CHUYỆN DÒNG HỌ LÝ – BẾN TRE
(qua lời kể và ký ức gia đình của ông bà còn lại tại Bến Tre)
Câu chuyện của gia đình tôi bắt đầu từ ông ngoại của tôi – nhân vật trung tâm của ký ức mà tôi được nghe lại qua nhiều thế hệ.
Ông Ngoại tôi tên Lý …. Lẹ, sinh năm 1933 tại Ba Tri, Bến Tre. Năm 1954, khi mới 21 tuổi, ông ngoại tôi rời quê hương Bến Tre để ra Bắc tập kết, trong bối cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền. Thời điểm đó, lịch sử buộc mỗi người phải lựa chọn:
- Theo cách mạng, thì ra miền Bắc tập kết.
- Theo chính quyền Ngô Đình Diệm, thì ở lại miền Nam.
Ông ngoại tôi đã chọn ra đi. Một lựa chọn mang tính thời đại, nhưng cũng là lựa chọn khiến ông xa quê hương suốt hơn hai mươi năm.
(Lý do tại sao gia đình lại cho ông Hai đi ra tập kết, trong khi điều kiện gia đình là có? – Đây là cầu hỏi tôi chưa tìm hiểu được)
GỐC RỄ DÒNG HỌ
Quê gốc của gia đình tôi ở Bến Tre, thuộc dòng họ Lý. Ông ngoại tôi là con cả, trong nhà miền Nam gọi là cậu Hai. Dưới ông là các em: bà Ba, bà Tư, ông Năm, ông Sáu, bà Bảy, ông Tám và ông Út – một gia đình đông con, nề nếp và có vị thế trong vùng.

Trước đời ông ngoại của tôi là Ông Cố (Ông Cụ) và Ông Sơ (Ông Kỵ), dòng họ tôi đã trải qua nhiều thăng trầm.
ĐỜI ÔNG SƠ (ÔNG TỔ Ở VÙNG ĐẤT BẾN TRE) – NỀN MÓNG BAN ĐẦU
Ông Sơ (ông tổ) của tôi là Lý Hưng Long.
- Sinh năm 1891
- Mất ngày 12/09/1940 (Canh Thìn), hưởng thọ 49 tuổi.
Bà sơ (bà tổ) là Nguyễn Thị Tĩnh.
- Sinh năm 1892.
- Mất ngày 24/11/1949 (Kỷ Sửu), hưởng thọ 57 tuổi.

Bối cảnh Bến Tre giai đoạn 1890–1940
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi ông Sơ Lý Hưng Long và bà Sơ sinh sống, Bến Tre vẫn còn là vùng đất cù lao sông nước, kênh rạch chằng chịt, lau sậy và dừa nước mọc dày, đất bãi bồi mặn phèn chưa được khai phá nhiều. Khi ấy, muốn có ruộng vườn không thể mua sẵn, mà phải tự tay mở đất: phát hoang rừng rậm, đắp bờ giữ nước, đào mương rửa mặn, từng bước biến đất hoang thành đất canh tác. Ông bà không đi lên bằng buôn bán hay may rủi, mà bằng sức lao động bền bỉ, sự kiên nhẫn và tầm nhìn giữ đất lâu dài. Chính từ những thửa đất được khai khẩn trong gian khó ấy, nền móng đầu tiên của gia đình được hình thành, để lại ruộng vườn và nếp làm ăn cho các thế hệ sau.
Theo lời các cụ kể lại, ông Tổ từng là người giàu có, sở hữu nhiều đất đai và cả nhà máy. Nhưng trong bối cảnh xã hội thời ấy, khi thuốc phiện được sử dụng rộng rãi và coi như một thứ ‘thuốc’, ông dần sa vào nghiện ngập. Cơ nghiệp vì thế bị bán dần, rồi bán hết, để lại cho gia đình một giai đoạn đứt gãy, từ sung túc rơi về tay trắng.

ĐỜI ÔNG CỐ – GÂY DỰNG LẠI CƠ NGHIỆP
Người vực dậy dòng họ sau biến cố ấy chính là ông cố tôi – Lý Văn Những.
- Sinh năm 1912
- Mất năm 1979, hưởng thọ 67 tuổi
- Nguyên nhân mất: hy sinh khi tham gia chiến trận tại Campuchia
Bà cố là Nguyễn Thị Tiên.
- Sinh năm 1914
- Mất năm 1981, hưởng thọ 67 tuổi.

Thân thế ông cố: Sinh ra và lớn lên trong gia đình địa chủ, có nền tảng kinh doanh.
Học vấn: Ông cố biết tiếng Nho, và tiếng Pháp.
Suy luận các nhân: Khi ông Sơ, bà Sơ gây dựng được cơ nghiệp, ông Cố lớn lên trong điều kiện được học hành đầy đủ hơn nhiều so với mặt bằng xã hội lúc bấy giờ. Việc biết chữ, biết tiếng không chỉ giúp ông tiếp cận tri thức, mà còn giúp gia đình duy trì quan hệ đúng mực với chính quyền và làng xã. Trong giai đoạn cơ nghiệp dần suy sụp, chính nền tảng học hành ấy đã trở thành chỗ dựa để ông giữ nếp nhà và xoay xở cho gia đình bước qua biến động
Ở Bến Tre, ông cố tôi là một địa chủ lớn, người có đất đai, uy tín và tiếng nói trong vùng. Dân làng gọi ông bằng cái tên đầy trọng vọng: ông Cả Trừng. “Ông Cả Trừng là người có vai vế và uy tín trong làng, phụ trách việc giữ phép tắc và trật tự theo lệ xưa.”

Ngôi nhà của ông cố là biểu tượng cho sự hưng thịnh của dòng họ. Theo lời kể, nhà có nền móng rất cao, chiều dài khoảng 30 mét, xung quanh trồng nhiều cây me lớn. Trước cửa nhà treo một biển hiệu mang tên “Lý Phủ Đường” – cái tên khiến tôi, dù chỉ nghe lại qua lời kể, vẫn cảm thấy vô cùng ấn tượng và tiếc nuối vì chưa tìm được bức ảnh nào lưu lại.
Khi giàu có và có nhiều đất đai, tôi thấy ông còn cho rất nhiều người sống nhờ trên đất của mình. Và đến tận ngày nay, vẫn còn rất nhiều gia đình đang sinh sống trên mảnh đất của ông.
Chính ông cố là người đã gầy dựng lại toàn bộ cơ nghiệp mà ông tổ để mất, đưa họ Lý trở lại vị thế giàu có và danh giá trong vùng.

(Câu chuyện tại sao ông có thể trở thành ông cả Trừng tôi chưa được tìm hiểu cặn kẽ , cũng như tấm biển Lý Phủ Đường tôi chưa được thấy trên ảnh ghi lại)
CUỘC TRỞ VỀ SAU 1975
Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, ông ngoại tôi có một lần duy nhất quay trở lại Bến Tre. Chuyến đi ấy vô cùng gian nan – ông phải đi tàu nhiều ngày mới về được đến quê nhà.
Theo lời các ông bà ở quê kể lại, lúc ấy ông ngoại rất nghèo, mặc quần áo rách vá, hoàn toàn đối lập với sự giàu có của gia đình ở quê.
Ông chỉ ở lại Bến Tre một thời gian ngắn, rồi cùng bà ngoại quay trở lại miền Bắc. Trước khi đi, ông cố đã cho ông bà những tài sản vô cùng giá trị thời bấy giờ:
- Một chiếc xe máy dame,
- Một chiếc đài cassette,
- Một chiếc máy may.

Ở thời điểm ấy, gần như không có gia đình bình thường nào sở hữu được những tài sản như vậy. Đó là những vật dụng chỉ xuất hiện trong các gia đình rất khá giả. Nhưng với ông bà tôi, chúng không đơn thuần là của cải, mà là sự tiếp nối, là tấm lòng che chở của thế hệ đi trước dành cho thế hệ đi sau.
Đó cũng là câu chuyện của tôi, sau ba mươi ba năm sinh ra, lần đầu thực sự tìm lại được cội nguồn của mình. Dù chỉ ở Bến Tre vỏn vẹn một ngày, tôi vẫn cảm nhận rất rõ rằng mảnh đất ấy không chỉ là quê hương của ông bà, mà đã trở thành một phần trong chính con người tôi.
BÀI HỌC MÀ TÔI RÚT RA ĐƯỢC TỪ ÔNG CHA CHÚNG TÔI
– Có lẽ một trong những bài học lớn nhất mà bạn có thể rút ra chính là tinh thần học hỏi không ngừng của ông cố. Ông không chỉ biết tiếng Nho mà còn học thêm tiếng Pháp, điều đó cho thấy ông luôn sẵn sàng mở rộng kiến thức và tận dụng mọi cơ hội để phát triển. Bài học ở đây có thể là tinh thần ham học, linh hoạt, sẵn sàng tiếp thu cái mới.
– Một bài học khác là sự kiên trì và khả năng thích ứng. Ông cố đã gây dựng lại từ hai bàn tay trắng, điều đó cho thấy sự bền bỉ và ý chí không bỏ cuộc. Đây cũng là một bài học quý giá cho thế hệ sau: dù hoàn cảnh có khó khăn, nếu kiên trì và không ngừng học hỏi, ta vẫn có thể tạo dựng được thành công.
– Cuối cùng, có lẽ bài học về lòng nhân ái và sự bao dung cũng rất quan trọng. Ông cố đã cưu mang người khác, sống rộng lượng với cộng đồng. Đây là những giá trị tinh thần mà bạn có thể truyền lại, để thế hệ sau hiểu rằng thành công không chỉ đo bằng tài sản mà còn bằng cách sống tử tế và nhân hậu.
Khi tôi được nghe lại trọn vẹn câu chuyện này, tôi mới thực sự hiểu rằng:
– Trong huyết quản của mình đang chảy dòng máu của những con người từng gây dựng được cơ đồ lớn, từng mất tất cả, rồi lại đứng lên xây dựng lại từ đầu.
– Chúng tôi, thế hệ đi sau mang trong mình dòng máu của một gia đình địa chủ, gia giáo, sống có nề nếp, có trên có dưới, thấm đẫm tinh thần Nho giáo của người miền Nam xưa.
– Và chính điều đó thôi thúc anh em chúng tôi phải nỗ lực nhiều hơn, cố gắng nhiều hơn, để xứng đáng với những gì ông cha tổ tiên đã từng làm được; và nếu có thể, tiếp tục xây dựng, phát triển lại cơ nghiệp ấy trong một thời đại mới.
Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2025.
Mr Toàn – Quảng cáo ngoài trời
